Tiếp tục đẩy mạnh triển khai thực hiện đổi mới chương trình giáo dục phổ thông
Lượt xem:
NHỮNG KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC TRONG NĂM HỌC 2022-2023
Với sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng, Nhà nước; sự phối hợp hiệu quả của các ban, bộ, ngành Trung ương và các cấp uỷ đảng, chính quyền địa phương; sự quyết tâm, trách nhiệm, phát huy tính chủ động, linh hoạt của đội ngũ nhà giáo, cán bộ quản lý giáo dục các cấp học…. việc triển khai kế hoạch năm học 2022-2023 đã đạt được những kết quả quan trọng.
Một là, tích cực sắp xếp lại mạng lưới, quy mô trường lớp tiểu học.
Nhiều địa phương trong cả nước đã tích cực thực hiện sắp xếp lại mạng lưới, quy mô trường, lớp tiểu học một cách phù hợp để tạo thuận lợi cho người dân, đảm bảo quyền lợi học tập của học sinh; chú trọng duy trì, mở rộng số lượng lớp học và bổ sung phòng học kiên cố, bán kiên cố và giảm số phòng học tạm hoặc mượn, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục, chuẩn bị sẵn sàng thực hiện Chương trình giáo dục phổ thông 2018 ở cấp tiểu học. Công tác điều tra phổ cập, dự báo được tình hình tăng, giảm học sinh tại các địa bàn trong từng địa phương được thực hiện thường xuyên hơn, gắn với các điều kiện về cơ sở vật chất và giáo viên để thực hiện tổ chức dạy học đúng quy định của chương trình, đảm bảo số lượng học sinh/lớp theo đúng quy định.
63/63 tỉnh, thành phố duy trì và đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học, trong đó có 30/63 tỉnh, thành phố (47,6%) được Bộ GD-ĐT công nhận đạt chuẩn phổ cập giáo dục tiểu học mức độ 3.
Hai là, mạng lưới trường cấp trung học cơ sở (THCS) và trung học phổ thông (THPT) ổn định, tăng dần.
Năm học 2022-2023 mạng lưới trường cấp THCS được giữ ổn định (tăng 3 trường so với năm học trước); số trường cấp THPT tăng 27 trường so với năm học trước, tập trung ở những địa phương có sự gia tăng dân số lớn, tốc độ đô thị hóa nhanh, dân nhập cư nhiều…
Công tác phổ cập giáo dục THCS tiếp tục được các địa phương quan tâm nhằm củng cố, duy trì đạt chuẩn phổ cập giáo dục và từng bước phấn đấu đạt chuẩn mức độ cao hơn để nâng cao chất lượng giáo dục. Tỷ lệ huy động học sinh hoàn thành Chương trình giáo dục tiểu học vào THCS đạt 94,3%. Tỷ lệ học sinh hoàn thành Chương trình giáo dục THCS đạt 90,7%. Cả nước có 11 tỉnh/thành phố(1) (17,5%) đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 2; 7 tỉnh/thành phố(2) (11,1%) đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS mức độ 3.
Ba là, tích cực triển khai chương trình giáo dục phổ thông (GDPT) ở các lớp học, cấp học.
Năm học 2022-2023 là năm học thứ hai giáo dục tiểu học (ở lớp 1, lớp 2, lớp 3), năm học thứ hai giáo dục THCS (ở lớp 6, lớp 7) và năm đầu tiên giáo dục THPT (ở lớp 10) triển khai thực hiện chủ trương của Đảng, Nhà nước về đổi mới chương trình GDPT ở các cấp học(3).
Công tác chuẩn bị được các bộ, ngành, địa phương quan tâm. Hệ thống sách giáo khoa (SGK), tài liệu giáo dục theo Chương trình GDPT 2018 được tổ chức biên soạn, thẩm định, phê duyệt, in và phát hành cơ bản theo đúng tiến độ, đáp ứng nhu cầu dạy và học. Nội dung SGK bám sát yêu cầu của Chương trình GDPT 2018, phù hợp yêu cầu phát triển năng lực, phẩm chất của học sinh. Danh mục SGK lớp 3, lớp 7, lớp 10 được phê duyệt để thực hiện theo đúng lộ trình. Tài liệu giáo dục địa phương các lớp 1, 2, 3, 6, 7, 10 và SGK, tài liệu hướng dẫn dạy học tiếng dân tộc thiểu số lớp 1, lớp 2 các địa phương biên soạn đang được rà soát, phê duyệt, đồng thời hướng dẫn các địa phương tổ chức lựa chọn SGK.
Nhằm điều chỉnh một số nội dung trong Chương trình tổng thể và Chương trình GDPT môn Lịch sử, Bộ GD-ĐT đã ban hành Thông tư số 13/2022/TT-BGDĐT, ngày 3/8/2022, sửa đổi, bổ sung một số nội dung trong Chương trình GDPT 2018 trên cơ sở đảm bảo giữ ổn định về quan điểm, mục tiêu, cấu trúc, lộ trình triển khai thực hiện Chương trình GDPT 2018.
Các địa phương trong cả nước đã chủ động xây dựng kế hoạch giáo dục phù hợp với điều kiện thực tế, vừa đảm bảo tính khoa học, sư phạm, vừa đảm bảo yêu cầu chuẩn đầu ra của Chương trình GDPT 2018, đồng thời đảm bảo thống nhất giữa kế hoạch thực hiện Chương trình GDPT hiện hành (Chương trình GDPT 2006). Cùng với đó là tích hợp lồng ghép các nội dung dạy học với những hoạt động trải nghiệm khác để tăng cường giáo dục kỹ năng sống, hình thành, phát triển phẩm chất và năng lực học sinh…
Nhiều cơ sở giáo dục đã chú trọng chuẩn bị tiếng Việt cho trẻ người dân tộc thiểu số trước khi vào lớp 1; biên soạn tài liệu chuẩn bị và tăng cường tiếng Việt phù hợp với địa phương; cấp phát miễn phí SGK, tài liệu tham khảo và đồ dùng học tập cho học sinh học tiếng dân tộc thiểu số. Kết quả học tập của học sinh qua đánh giá và kiểm tra định kỳ cuối học kỳ được duy trì ổn định, chất lượng giáo dục của học sinh lớp 1, lớp 2, lớp 3 được đảm bảo.
Nhìn chung, kết quả thực hiện Chương trình GDPT 2018 đảm bảo tiến độ và nội dung theo quy định, tạo điều kiện phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh các cấp học, lớp học. Việc xây dựng và tổ chức thực hiện các môn học và chuyên đề học tập cho học sinh lớp 10 được các trường THPT thực hiện đúng theo quy định; căn cứ vào thực tế giáo viên hiện có, phòng học của nhà trường, thiết bị dạy học, phòng thí nghiệm và nguyện vọng của học sinh để tiến hành xây dựng kế hoạch, bố trí học sinh theo các nhóm môn học và cụm chuyên đề học tập lựa chọn; công khai các phương án lựa chọn, tư vấn cho phụ huynh, học sinh lựa chọn môn học và các cụm chuyên đề học tập lựa chọn phù hợp với định hướng nghề nghiệp, phù hợp với đối tượng học sinh và điều kiện của địa phương.
Bốn là, linh hoạt, phù hợp trong xây dựng kế hoạch dạy học môn Tiếng Anh và Tin học; tăng cường huy động nguồn lực xã hội hóa…
Năm học 2022-2023 cũng là năm học đầu tiên triển khai tổ chức dạy học môn Tiếng Anh và Tin học theo Chương trình GDPT 2018 đối với lớp 3. Các địa phương đã chú trọng tăng cường công tác tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng giáo viên, thực hiện phương án bố trí giáo viên linh hoạt, điều động giáo viên dạy liên trường trong cùng cấp học, biệt phái giáo viên cấp THCS theo thẩm quyền quản lý tham gia giảng dạy tại các trường tiểu học trên địa bàn. Kế hoạch thực hiện môn học được xây dựng linh hoạt, phù hợp và phối hợp với các địa phương khác tổ chức dạy học trực tuyến hoặc trực tiếp kết hợp trực tuyến…
Công tác huy động các nguồn lực xã hội hóa đầu tư trang bị thiết bị dạy học cho các phòng học Ngoại ngữ, Tin học và sửa chữa, thay thế, nâng cấp các phòng học quá xuống cấp được đẩy mạnh.
Năm là, chủ động xây dựng kế hoạch giáo dục hướng nghiệp, định hướng phân luồng học sinh.
Tiếp tục triển khai Đề án “Giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong giai đoạn 2018-2025”, hầu hết các cơ sở giáo dục đã chủ động xây dựng kế hoạch giáo dục hướng nghiệp và định hướng phân luồng học sinh trong GDPT theo hướng mở; thực hiện đổi mới mục tiêu, nội dung, hình thức giáo dục hướng nghiệp trong chương trình GDPT hiện hành phù hợp với Chương trình GDPT 2018; thực hiện giáo dục hướng nghiệp thông qua các môn học và hoạt động giáo dục trong nhà trường; phối hợp với Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, các doanh nghiệp, viện nghiên cứu, trường đại học, cao đẳng, trung cấp và cơ sở dạy nghề tại địa phương cung cấp thông tin thường xuyên, kịp thời về nhu cầu lao động, thị trường lao động, tạo cơ sở định hướng nghề nghiệp cho học sinh.
Sáu là, tích cực đổi mới phương pháp dạy học.
Việc đổi mới phương pháp dạy học nhằm đáp ứng mục tiêu phát triển phẩm chất, năng lực của học sinh đã và đang được các cơ sở giáo dục, giáo viên tích cực triển khai, thực hiện. Các nhà trường đã chủ động hơn trong xây dựng kế hoạch giáo dục nhà trường, kế hoạch giáo dục tổ chuyên môn, kế hoạch hoạt động giáo dục, kế hoạch bài giảng một cách linh hoạt, phù hợp với tình hình đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học để thực hiện chương trình GDPT thực chất, hiệu quả hơn. Vận dụng các phương pháp dạy học tích cực thông qua tổ chức hoạt động của học sinh; qua quá trình tổ chức giảng dạy của giáo viên, qua khai thác nội dung SGK, sử dụng thiết bị dạy học, học liệu… để phát triển năng lực, phẩm chất theo yêu cầu của chương trình GDPT mới.
Bảy là, đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục phát triển về số lượng, từng bước khắc phục những bất cập về cơ cấu.
Theo thống kê sơ bộ, tổng số giáo viên mầm non, phổ thông cả nước hiện nay là 1.234.124 người (tăng 71.927 người so với năm học trước, trong đó công lập chiếm 88,57%, ngoài công lập chiếm 11,43%); 100.135 cán bộ quản lý cơ sở giáo dục mầm non, phổ thông (công lập chiếm 90,4%). Các địa phương trong cả nước tích cực triển khai công tác tuyển dụng giáo viên theo chỉ tiêu biên chế được giao; quan tâm, chăm lo, phát triển đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục; bố trí, sử dụng đội ngũ theo khung năng lực vị trí việc làm, chuyên môn đào tạo, phù hợp với điều kiện thực tế của địa phương; thực hiện các chế độ, chính sách cho đội ngũ theo quy định chung và tham mưu ban hành các chính sách đặc thù của địa phương nhằm động viên, thu hút đội ngũ yên tâm công tác.
Thực hiện việc nâng chuẩn trình độ đào tạo của nhà giáo theo Luật Giáo dục 2019, các địa phương đã và đang phối hợp với các cơ sở đào tạo giáo viên để thực hiện nâng chuẩn trình độ đào tạo giáo viên theo lộ trình. Tính đến hết năm học 2022-2023, tỷ lệ đạt chuẩn được đào tạo theo Luật Giáo dục 2019 của cấp tiểu học là 83,3%, cấp THCS là 90,3%, cấp THPT là 99,9%. Năng lực sư phạm của phần lớn nhà giáo được nâng lên, bước đầu đáp ứng được yêu cầu cơ bản về đổi mới nội dung, phương pháp dạy học.
Đội ngũ cán bộ quản lý phần lớn đều là các nhà giáo giỏi được điều động sang làm công tác quản lý, có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, cơ bản đáp ứng được yêu cầu lãnh đạo, quản lý ở các cơ sở giáo dục và các cơ quan quản lý giáo dục.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục được các địa phương quan tâm thực hiện; thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng về kiến thức, kỹ năng, tạo điều kiện thuận lợi để đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục tham gia học tập chuyên môn, nghiệp vụ và lý luận chính trị; tham gia đào tạo nâng chuẩn trình độ; đồng thời thực hiện đào tạo gắn với nhu cầu để đảm bảo đủ về cơ cấu, số lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ; gắn với yêu cầu đổi mới giáo dục mầm non, GDPT.
NHỮNG HẠN CHẾ, BẤT CẬP
Bên cạnh những kết quả đạt được nêu trên, nhìn chung, năm học 2022-2023, mạng lưới trường lớp, điều kiện cơ sở vật chất, thiết bị dạy học cấp tiểu học, THCS, THPT ở không ít địa phương vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục. Việc bố trí cơ sở vật chất tại một số cơ sở giáo dục chưa phù hợp với quy chuẩn, tiêu chuẩn trường học; số học sinh/lớp, diện tích phòng học so với số học sinh chưa đảm bảo theo quy định. Việc mua sắm thiết bị dạy học tối thiểu ở không ít địa phương còn chậm và đang gặp nhiều khó khăn, vướng mắc.
Nhiều nơi còn chậm triển khai thực hiện quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục hoặc triển khai thực hiện mang tính “cơ học” – chưa xem xét đến các yếu tố về đảm bảo chất lượng. Một số địa phương còn phòng học nhờ, phòng học tạm; thiếu các phòng chức năng, công trình vệ sinh, nước sạch, bếp ăn; tỷ lệ thiết bị dạy học chưa đáp ứng nhu cầu…
Mặc dù tỷ lệ phòng học kiên cố hóa bình quân của cả nước từ 79,5% trở lên (theo từng cấp học). Tuy nhiên, ở các vùng miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long có tỷ lệ kiên cố hóa thấp hơn bình quân của cả nước. Tình trạng thiếu trường, lớp, thiếu phòng học cục bộ chưa được giải quyết triệt để, đặc biệt là tại một số khu đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn…
Do chưa có giáo viên nên hầu hết các cơ sở giáo dục không có tổ hợp môn học và chuyên đề học tập lựa chọn có môn Âm nhạc, Mĩ thuật. Việc phân công giáo viên dạy các môn học mới (Khoa học tự nhiên, Hoạt động trải nghiệm và hướng nghiệp, nội dung giáo dục địa phương….) chưa bảo đảm theo nguyên tắc phân công giáo viên phù hợp với năng lực chuyên môn, dẫn tới khó khăn trong việc bảo đảm chất lượng, đồng thời làm tăng áp lực của giáo viên.
Kế hoạch giáo dục ở một số nhà trường chưa bảo đảm tính linh hoạt và phù hợp với điều kiện về cơ sở vật chất, còn tình trạng giáo viên đảm nhận các môn học mới, trong khi vẫn phải đảm nhiệm môn học theo Chương trình GDPT hiện hành. Việc thiết kế nội dung các môn học tích hợp cấp THCS chưa đạt mục tiêu, chủ yếu là tập hợp kiến thức của các môn học, sử dụng nhiều giáo viên cùng giảng dạy.
Việc xây dựng các tổ hợp môn học cấp THPT còn bất cập, chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu định hướng nghề nghiệp và nhu cầu của học sinh… ảnh hưởng đến chuyển đổi môn học hoặc chuyển trường đối với học sinh. Việc tổ chức các hoạt động dạy học ở nhiều nơi còn hình thức, kém hiệu quả, chưa đúng bản chất tinh thần đổi mới.
Hệ thống quy định về thi, kiểm tra, đánh giá chưa đầy đủ, chưa đáp ứng yêu cầu về định hướng phát triển phẩm chất và năng lực học sinh. Quy định và hướng dẫn thi tốt nghiệp THPT theo Chương trình GDPT 2018 chưa được ban hành, gây khó khăn cho học sinh, giáo viên trong việc định hướng lựa chọn tổ hợp môn học ở cấp THPT và triển khai tổ chức dạy học.
Việc thẩm định, tiếp thu, chỉnh sửa SGK chưa chặt chẽ, dẫn tới còn sai sót về nội dung ở một số cuốn sách giáo khoa(4). Thời gian lựa chọn SGK còn ít, số bản mẫu SGK nhiều (nhất là ở cấp tiểu học). Nhiều địa phương chậm phê duyệt kết quả lựa chọn SGK, ảnh hưởng đến tiến độ cung ứng sách. Quy trình cung ứng, phát hành SGK còn nhiều bất cập, qua nhiều khâu trung gian. Có tình trạng khan hiếm, thiếu sách cục bộ đối với một số đầu sách trước thềm năm học mới; việc mua SGK ngoài thị trường gặp khó khăn. Tình trạng in sách lậu, phát hành SGK giả diễn ra phức tạp. Một số đầu SGK phát hành chậm, giáo viên có ít thời gian nghiên cứu, chuẩn bị bài giảng, ảnh hưởng tới chất lượng dạy học.
Nhiều địa phương gửi hồ sơ đề nghị phê duyệt tài liệu giáo dục địa phương còn chậm so với quy định. Chất lượng tài liệu còn hạn chế, chủ đề, bài học còn trùng lặp ở các lớp, chưa có sự tương đồng với Chương trình GDPT 2018. Việc phê duyệt tài liệu hướng dẫn dạy học tiếng dân tộc thiểu số còn nhiều vướng mắc chưa được tháo gỡ, gây khó khăn cho giáo viên và học sinh trong quá trình triển khai dạy và học.
Việc sắp xếp các đơn vị sự nghiệp công lập, tinh giản biên chế gắn với nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo dục đang là một thách thức rất lớn đối với ngành Giáo dục. Tại nhiều địa phương, biên chế sự nghiệp giáo dục được giao bổ sung không đáp ứng được nhu cầu giảng dạy trong các cơ sở giáo dục. Tỷ lệ giáo viên/lớp ở các cơ sở giáo dục phổ thông công lập trên cả nước (chỉ tính giáo viên trong biên chế) còn thấp hơn so với quy định. Tình trạng thừa, thiếu giáo viên cục bộ và thiếu giáo viên dạy các môn học mới, thiếu giáo viên phổ thông công lập hiện đang diễn ra phổ biến ở nhiều địa phương.
Việc thực hiện đào tạo nâng chuẩn ở các địa phương chưa đồng đều. Chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục không đồng đều, đặc biệt là ở các vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn, còn khoảng cách lớn so với các vùng thuận lợi.
Theo thống kê sơ bộ, hiện nay cả nước còn thiếu 118.253 giáo viên (mặc dù đã tăng thêm 11.308 người so với năm học trước), trong đó giáo viên phổ thông thiếu 62.877 người; thừa cục bộ 5.091 người.
Năm học 2022-2023, cả nước có hơn 19.300 giáo viên công lập nghỉ hưu và nghỉ việc. Cơ cấu đội ngũ giáo viên chưa cân đối giữa các môn học trong cùng một cấp học, giữa các vùng miền; chưa đồng bộ giữa cấp THCS và THPT, nhất là đối với một số môn học mới. |
ĐỊNH HƯỚNG, NHIỆM VỤ TRỌNG TÂM NĂM HỌC 2023-2024
Đổi mới căn bản, toàn diện GD-ĐT là một chủ trương, nhiệm vụ lớn, đặc biệt quan trọng và không kém phần phức cảm, nhạy cảm, phạm vi tác động lớn… Vì thế, việc triển khai thực hiện, nhất là những nội dung đổi mới phải đặc biệt chú trọng tới những vấn đề lớn, cốt lõi, cấp thiết – từ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo đến mục tiêu, nội dung, cơ chế chính sách, điều kiện thực hiện…. Theo đó, công tác giáo dục phải luôn bám sát quan điểm lấy học sinh làm trung tâm, nhà trường làm nền tảng, giáo viên làm động lực, đổi mới tư duy từ trang bị kiến thức sang trang bị năng lực phẩm chất toàn diện cho học sinh.
Với phương châm “Đoàn kết, kỷ cương, sáng tạo, tiếp tục đổi mới theo chiều sâu, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo”, năm học 2023-2024, GDPT cần tăng cường hơn nữa việc tập trung xây dựng và triển khai Chương trình GDPT 2018 một cách đồng bộ, khoa học, hiệu quả; đảm bảo tính hệ thống, tầm nhìn dài hạn, có lộ trình bước đi phù hợp. Trước mắt, cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ trọng tâm sau:
Thứ nhất, thực hiện tốt 5 nhóm nhiệm vụ trọng tâm đối với giáo dục tiểu học.
1) Chủ động, tích cực, kịp thời trong công tác tham mưu và tổ chức triển khai nhiệm vụ năm học 2023-2024 đảm bảo an toàn trường học, thực hiện hiệu quả phân cấp quản lý gắn với trách nhiệm giải trình trong tổ chức thực hiện kế hoạch năm học theo quy định và phù hợp với thực tiễn tại địa phương.
2) Thực hiện hiệu quả Chương trình GDPT 2018 cấp tiểu học đối với lớp 1, lớp 2, lớp 3, lớp 4 và Chương trình GDPT cấp tiểu học hiện hành đối với lớp 5.
3) Tiếp tục nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý; thực hiện xây dựng kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, bồi dưỡng và tự bồi dưỡng để có đủ giáo viên, đảm bảo chất lượng dạy học các môn học, hoạt động theo Chương trình GDPT 2018 cấp tiểu học.
4) Chú trọng thực hiện quy hoạch phát triển mạng lưới trường, lớp và đảm bảo cơ sở vật chất, thiết bị dạy học; duy trì, nâng cáo chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học và thực hiện giáo dục tiểu học là giáo dục bắt buộc theo quy định của Luật Giáo dục 2019.
5) Chú trọng đổi mới công tác quản lý, quản trị trường học, coi trọng công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát theo thẩm quyền; khai thác, sử dụng SGK, các nguồn học liệu, thiết bị dạy học hiệu quả, phù hợp thực tiễn; vận dụng linh hoạt các phương pháp, hình thức tổ chức dạy học nhằm phát triển phẩm chất năng lực của học sinh; phát động, tổ chức các phong trào thi đua, nhân rộng các điển hình tiên tiến trong công tác dạy học.
Ngoài ra, các địa phương, cơ sở giáo dục tiểu học cần lưu ý thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể, thường xuyên hằng năm như: các giải pháp đảm bảo an toàn trường học; chương trình, kế hoạch giáo dục; tổ chức dạy học các môn Ngoại ngữ, Tin học theo chương trình GDPT cấp tiểu học, tạo tiền đề cho việc học ngoại ngữ ở các giai đoạn tiếp theo. Thực hiện hiệu quả tổ chức dạy học môn học Tiếng dân tộc thiểu số; biên soạn, thẩm định, dạy học nội dung giáo dục “Địa phương em” và tổ chức dạy học giáo dục địa phương theo Chương trình GDPT 2018; triển khai giáo dục STEM; nâng cao hiệu quả phương pháp, hình thức tổ chức dạy học và phương pháp, hình thức đánh giá.
Thứ hai, thực hiện tốt 6 nhóm nhiệm vụ trọng tâm giáo dục trung học.
1) Triển khai thực hiện Chương trình GDPT 2018 đối với lớp 6, lớp 7, lớp 8, lớp 10 và lớp 11; thực hiện Chương trình GDPT hiện hành đối với lớp 9 và lớp 12, bảo đảm thực hiện và hoàn thành chương trình năm học; củng cố và nâng cao chất lượng giáo dục THCS và THPT.
2) Tiếp tục thực hiện công tác quy hoạch phát triển mạng lưới trường, lớp, đội ngũ giáo viên và cơ sở vật chất, thiết bị dạy học bảo đảm yêu cầu triển khai Chương trình GDPT 2018; nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục THCS; thực hiện hiệu quả công tác giáo dục hướng nghiệp, phân luồng học sinh sau THCS và THPT.
3) Đẩy mạnh chuyển đổi số, đổi mới cơ chế quản lý giáo dục; thực hiện quản trị trường học dân chủ, kỷ cương, nền nếp, chất lượng và hiệu quả giáo dục trong các cơ sở giáo dục trung học.
4) Tăng cường đổi mới phương pháp dạy học và kiểm tra, đánh giá theo định hướng phát triển năng lực học sinh; đa dạng hóa các hình thức giáo dục, đẩy mạnh các hoạt động trải nghiệm, nghiên cứu khoa học của học sinh; triển khai ứng dụng công nghệ số trong dạy và học.
6) Tập trung phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục đáp ứng yêu cầu thực hiện Chương trình GDPT 2018; chú trọng nâng cao năng lực chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ giáo viên, bảo đảm đủ giáo viên theo môn học để tổ chức dạy học các môn học trong chương trình.
6) Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống, kỹ năng sống; bảo đảm an toàn trường học; chủ động, linh hoạt thực hiện kế hoạch năm học, chủ động phòng, chống và ứng phó hiệu quả với thiên tai, dịch bệnh.
Ngoài ra, các địa phương, cơ sở giáo dục trung học cần lưu ý thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể, thường xuyên: Thực hiện Chương trình GDPT bảo đảm chất lượng. Xây dựng kế hoạch giáo dục nhà trường bảo đảm sử dụng hiệu quả đội ngũ giáo viên, cơ sở vật chất, thiết bị dạy học. Thực hiện hiệu quả các phương pháp và hình thức dạy học; các phương pháp và hình thức kiểm tra, đánh giá; nâng cao chất lượng giáo dục hướng nghiệp, định hướng phân luồng; tham gia tổ chức các kì thi, cuộc thi. Phát triển mạng lưới trường, lớp, nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục THCS. Tăng cường các điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục trung học (phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục; tăng cường cơ sở vật chất và thiết bị dạy học, học liệu); tiếp tục thực hiện đổi mới công tác quản lý giáo dục; công tác thi đua, khen thưởng… phù hợp với điều kiện, tình hình địa phương./.
TS. LÊ THỊ MAI HOA
Ban Tuyên giáo Trung ương